Rối loạn chức năng tình dục là gì? Các công bố khoa học về Rối loạn chức năng tình dục

Rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunction) là một khái niệm y tế mô tả những vấn đề liên quan đến khả năng hoặc sự thỏa mãn trong việc tham gia vào hoạt đ...

Rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunction) là một khái niệm y tế mô tả những vấn đề liên quan đến khả năng hoặc sự thỏa mãn trong việc tham gia vào hoạt động tình dục. Rối loạn chức năng tình dục có thể ảnh hưởng đến cả nam và nữ và có thể bao gồm các vấn đề như suy giảm ham muốn tình dục (low sexual desire), khó khăn trong việc đạt được hoặc duy trì cương cứng ở nam giới (erectile dysfunction), khó khăn trong việc kích thích hoặc đạt được khoái cảm ở cả nam và nữ (orgasmic disorders), hoặc đau hoặc khó chịu khi tham gia vào hoạt động tình dục (sexual pain disorders). Rối loạn chức năng tình dục có thể do nhiều yếu tố gây ra, bao gồm cả yếu tố tâm lý, sinh lý hoặc xã hội. Điều quan trọng là nếu bạn gặp phải các triệu chứng hoặc vấn đề tương tự, bạn nên tham khảo ý kiến của một chuyên gia y tế để được tư vấn và điều trị phù hợp.
Rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunction) là một khái niệm tổng quát để chỉ một loạt các vấn đề và khó khăn liên quan đến hoạt động tình dục của một cá nhân. Rối loạn này có thể xảy ra ở cả nam và nữ và ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào hoạt động tình dục, cả về mặt sinh lý và cảm xúc.

Có một số loại rối loạn chức năng tình dục, bao gồm:

1. Rối loạn ham muốn tình dục (Desire disorders): Bao gồm suy giảm ham muốn tình dục (low sexual desire) hoặc không có ham muốn tình dục (lack of sexual desire). Người bị rối loạn này có thể không có hứng thú hoặc khó khăn trong việc kích thích hoặc khao khát hoạt động tình dục.

2. Rối loạn kích thích tình dục (Arousal disorders): Bao gồm khó khăn trong việc đạt được hoặc duy trì sự kích thích tình dục, như việc không cảm thấy bị kích thích, cương cứng không đủ hoặc việc không có đủ dầu nhờn tự nhiên để làm giảm ma sát trong quá trình quan hệ tình dục.

3. Rối loạn trạng thái khoái cảm tình dục (Orgasmic disorders): Bao gồm khó khăn trong việc kích thích hoặc đạt được khoảnh khắc khoái cảm tình dục, như không thể đạt được cực khoái tình dục (anorgasmia) hoặc việc có cực khoái tình dục quá nhanh (premature orgasm).

4. Rối loạn đau tình dục (Sexual pain disorders): Đây là loại rối loạn khi việc tham gia vào hoạt động tình dục gây ra đau hoặc khó chịu. Rối loạn này có thể làm giảm ham muốn tình dục hoặc cản trở việc tham gia vào hoạt động tình dục.

Nguyên nhân của rối loạn chức năng tình dục có thể bao gồm yếu tố tâm lý (stress, mệt mỏi, lo âu, trầm cảm), yếu tố sinh lý (thiếu năng lượng, suy giảm hormone tình dục), thuốc men hoặc các vấn đề y tế khác.

Để chẩn đoán và điều trị rối loạn chức năng tình dục, quan trọng là tham khảo ý kiến của một chuyên gia y tế như bác sĩ hoặc nhân viên y tế chuyên về y tế tình dục để họ có thể tìm hiểu về tình trạng của bạn và đưa ra các giải pháp điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rối loạn chức năng tình dục":

Tác động của các bệnh thấp khớp lên chức năng tình dục Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2009
Tình dục là một khía cạnh phức tạp trong cuộc sống của con người và không chỉ đơn thuần là hành động tình dục. Chức năng tình dục bình thường bao gồm hoạt động tình dục với sự chuyển tiếp qua các giai đoạn từ hưng phấn đến thư giãn mà không gặp phải vấn đề gì, và với cảm giác thỏa mãn, hoàn thiện và vui vẻ. Các bệnh thấp khớp có thể ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả chức năng tình dục. Các nguyên nhân gây rối loạn chức năng tình dục là đa yếu tố và bao gồm các yếu tố liên quan đến bệnh tật cũng như liệu pháp điều trị. Ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp, đau đớn và trầm cảm có thể là những yếu tố chính góp phần vào rối loạn chức năng tình dục. Ngược lại, ở phụ nữ bị hội chứng Sjögren, lupus ban đỏ hệ thống và xơ cứng hệ thống, rối loạn chức năng tình dục dường như có mối liên hệ chặt chẽ nhất với sự khó chịu hoặc đau đớn ở âm đạo trong quá trình giao hợp. Cuối cùng, rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân fibromyalgia có thể chủ yếu liên quan đến trầm cảm, nhưng các triệu chứng đặc trưng của fibromyalgia (đau tổng quát, cứng khớp, mệt mỏi và mất ngủ) có thể góp phần vào sự xuất hiện của rối loạn chức năng tình dục. Việc điều trị rối loạn chức năng tình dục sẽ tùy thuộc vào các triệu chứng cụ thể của bệnh nhân, tuy nhiên, có một số khuyến nghị chung bao gồm: khám phá các tư thế khác nhau, sử dụng thuốc giảm đau, áp dụng nhiệt và thuốc giãn cơ trước khi hoạt động tình dục và khám phá các phương pháp biểu đạt tình dục thay thế. Đây là một bài tổng quan hệ thống về tác động của một số bệnh thấp khớp đối với chức năng tình dục. Đến nay, chưa có tổng quan nào trước đây về chủ đề này.
#bệnh thấp khớp #chức năng tình dục #viêm khớp dạng thấp #viêm cột sống dính khớp #hội chứng Sjögren #lupus ban đỏ hệ thống #xơ cứng hệ thống #fibromyalgia #rối loạn chức năng tình dục
TỶ LỆ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NỮ NHÂN VIÊN Y TẾ Ở CÁC BỆNH VIỆN CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 541 Số 2 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Việc đang thiếu hụt nguồn lực nhân viên y tế ở các bệnh viện (BV) công tại thành phố Buôn Mê Thuột sẽ dẫn tới tăng gánh nặng công việc, áp lực ngày càng cao cho các NVYT còn lại. Đặc biệt với NVYT nữ, với môi trường áp lực như vậy sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe thể chất và tinh thần trong đó có sức khỏe tình dục. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục và các yếu tố liên quan  ở nữ  nhân viên y tế tại các bệnh viện công ở thành phố Buôn Ma Thuột (TP.BMT) năm 2004. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 384 NVYT nữ đang làm việc tại 3 BV công trên địa bàn TP Buôn Ma Thuột bằng phương pháp chọn mẫu PPS, tất cả NVYT đồng ý tham gia nghiên cứu (NC) đều được gửi bộ câu hỏi FSFI bằng biểu mẫu trực tuyến (Google forms). Kết quả: Tỷ lệ rối loạn tình dục là: 69% (KTC 95%: 64,1 -73,7) và các yếu tố liên quan đến RLTD chung: Đạo Công Giáo (POR*:  5,9), sự hài lòng khi quan hệ tình dục của chồng (POR*: 0,064), có con nhỏ có cản trở QHTD của vợ chồng (POR*:2,2), công việc bị áp lực/rất áp lực (POR*: 3,55), NVYT tại BV Vùng Tây Nguyên (POR*:3,05). Kết Luận: Tỷ lệ RLTD nữ NVYT tăng lên đáng kể khi làm trong môi trường công việc áp lực, căng thẳng. Đạo công giáo, cho rằng chăm con nhỏ ảnh hưởng đến QHTD và sự hài lòng khi quan hệ tình dục của chồng
#Rối loạn tình dục nữ #nhân viên y tế
Chức năng tình dục ở cặp vợ chồng vô sinh: liệu có mối quan hệ tương hỗ?
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 162 - 167 - 2017
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa rối loạn tình dục nam và nữ ở cặp vợ chồng vô sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, sử dụng các bộ câu hỏi Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (IIEF) cho chồng và Chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI) cho vợ trong mẫu 150 cặp vợ chồng vô sinh đến khám tại trung tâm Nội tiết sinh sản và Vô sinh, Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế. Kết quả: Nghiên cứu đã tìm thấy một mối tương quan thuận giữa chức năng tình dục nam và nữ, mức độ tương quan nhẹ (r = 0,26). Ngoài ra còn tìm thấy tổng điểm IIEF có tương quan nhẹ với điểm số các hình thái phấn khích, đạt khoái cảm và thỏa mãn trong chức năng tình dục nữ (với hệ số tương quan r lần lượt là 0,176; 0,223 và 0,271). Đồng thời, tổng điểm FSFI cũng có tương quan nhẹ với các hình thái thỏa mãn giao hợp và thỏa mãn toàn diện trong chức năng tình dục nam (với r lần lượt là 0,178 và 0,222). Kết luận: Đã tìm thấy một mối tương quan về chức năng tình dục giữa vợ và chồng của các cặp vô sinh, rối loạn tình dục ở người này có thể là sự phản ánh rối loạn ở người kia
#Vô sinh #rối loạn tình dục.
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở NGƯỜI BỆNH NAM RỐI LOẠN LO ÂU LAN TỎA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Bối cảnh: Rối loạn lo âu lan tỏa là một rối loạn đặc trưng bởi lo lắng quá mức, mạn tính, không thể kiểm soát được, có tính chất lan tỏa, tản mạn, không khu trú vào một sự kiện hoàn cảnh đặc biệt nào ở xung quanh hoặc có liên quan với những sự kiện đã qua không còn tính thời sự nữa. Rối loạn này thường liên quan tới stress trường diễn, tiến triển thay đổi nhưng có xu hướng mạn tính. Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ rối loạn chức năng tình dục cao ở người bệnh lo âu lan toả. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm rối loạn chức năng tình dục ở người bệnh nam rối loạn lo âu lan tỏa điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 60 bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 07/2020 đến tháng 07/2021. Kết quả: độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân 43,82±1,926 tuổi, tuổi trung bình bắt đầu hoạt động chức năng tình dục là 19,7±4,1 tuổi, 63,3% giảm chức năng cương chiếm, 70% bệnh nhân có giảm ham muốn tình dục, 75% bệnh nhân báo cáo thời gian xuất tinh nhanh hơn bình thường. Kết luận: Rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa xuất hiện với tỉ lệ cao, với biểu hiện giảm ham muốn, chức năng cương suy giảm, thời gian xuất tinh rút ngắn, là vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn khi điều trị các bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa.
#rối loạn lo âu lan tỏa #rối loạn chức năng tình dục #đặc điểm lâm sàng
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở BỆNH NHÂN SUY TIM CHỨC NĂNG TÂM THU THẤT TRÁI GIẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân suy tim chức năng tâm thu thất trái giảm và một số yếu tố liên quan tại Viện Tim mạch Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang xác định rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân nữ dựa vào bộ câu hỏi FSFI, rối loạn cương dương ở bệnh nhân nam dựa vào bộ câu hỏi IIEF. Kết quả: Tỷ lệ suy giảm chức năng sinh dục nữ với 77,3%; rối loạn cương dương ở nam 88,9%; rối loạn chức năng tình dục nữ và rối loạn cương dương có liên quan đến tuổibệnh nhân suy tim. Kết luận: Rối loạn chức năng tình dục nữ và rối loạn cương dương ở bệnh nhân suy tim chức năng tâm thu thất trái giảm với tỷ lệ cao, có tương quan với tuổi của bệnh nhân suy tim.
#Suy tim #Rối loạn chức năng tình dục nữ #Rối loạn cương dương
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở NAM BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng tình dục là một rối loạn thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Rối loạn chức năng tình dục làm suy giảm chất lượng cuộc sống, đặt ra một thách thức đối với mối quan hệ vợ chồng, ảnh hưởng tới quá trình tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng tình dục ở nam bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 165 nam bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị tại phòng khám Nội tiết – Đái Tháo Đường - Khoa khám bệnh - Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 08/2020 đến tháng 08/2021. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu có độ tuổi trung bình 63,47 ± 10,14; nơi sinh sống chủ yếu ở thành thị 73,9%; trình độ học vấn cao đẳng, đại học và sau đại học 37,6%, thời gian mắc đái tháo đường trung bình là 8,66 ± 4,95 năm, 68,5% bệnh nhân có rối loạn cương dương, thời gian trung bình có rối loạn cương dương là 3,18 ± 1,04 sau khi mắc đái tháo dường; 34,5% bệnh nhân đánh giá trên thang chất lượng cuộc sống là hòa lẫn giữa thỏa mãn và bất mãn. Kết luận: Rối loạn chức năng tình dục là một rối loạn thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 và làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
#Đái tháo đường type 2 #Rối loạn chức năng tình dục #Đặc điểm lâm sàng
9. Thực trạng rối loạn chức năng tình dục và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai đến khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Mô tả thực trạng suy giảm chức năng tình dục và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai (PNMT) đến khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2020. Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi FSFI (Female Sexual Function Index) nhằm đánh giá chức năng tình dục của phụ nữ: phụ nữ mang thai có điểm từ 26,55 trở xuống được đánh giá là gặp rối loạn chức năng tình dục (RLCNTD). Kết quả cho thấy: 130 phụ nữ mang thai tham gia vào nghiên cứu, 20% phụ nữ mang thai không có hoạt động giao hợp trong vòng 4 tuần qua. Tỷ lệ rối rối loạn chức năng tình dục tương đối cao: 51,5%. Điểm FSFI trung bình ở phụ nữ mang thai là 23,9 ± 7,7 điểm. Phụ nữ mang thai quý 2 có điểm trung bình về ham muốn là 2,9 ± 0,9 điểm, thấp hơn so với quý 1 là 3,6 ± 1,0 điểm. Các yếu tố: tuổi mẹ, quan điểm quan hệ tình dục khi mang thai là các yếu tố liên quan đến rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ mang thai. Tỷ lệ PNMT từ 30 tuổi trở lên có bị RLCNTD chỉ bằng 0,29 lần so với nhóm dưới 30 tuổi. Những PNMT cho rằng QHTD cải thiện SK bị RLCNTD chỉ bằng 0,26 lần so với nhóm không đồng ý với quan điểm trên.
#chức năng tình dục nữ giới #FSFI #rối loạn chức năng tình dục #phụ nữ mang thai #quan hệ tình dục #yếu tố liên quan
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở NGƯỜI BỆNH NAM GIỚI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ BIẾN CHỨNG THẦN KINH TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Rối loạn tình dục ở người bệnh đái tháo đường týp 2 có biến chứng thần kinh chưa được quan tâm đúng mức so với sự ảnh hưởng của nó lên chất lượng cuộc sống, khiến người bệnh không được thỏa mãn nhu cầu về tâm sinh lý, đặt ra một thách thức với mối quan hệ vợ chồng, và việc tuân thủ điều trị. Mục tiêu nghiên cứu: Rối loạn chức năng tình dục ở người bệnh nam giới đái tháo đường týp 2 có biến chứng thần kinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 61 người bệnh nam giới đái tháo đường týp 2 có biến chứng thần kinh tại Khoa Nội Tiết bệnh viện Bạch Mai từ tháng 07/2021 đến tháng 07/2022. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 58,14 ± 7,53. Thời gian mắc bệnh trung bình của nhóm nghiên cứu là 9,27 ± 3,2. Giá trị trung bình HbA1C của cả nhóm là 10,2 ± 3,7. Số bệnh nhân có HbA1C ≥ 7,0 chiếm tỷ lệ cao hơn 40/61, chiếm 65,57%. Biến chứng thần kinh ngoại vi mức độ trung bình thường gặp nhất chiếm 47,1%, tỷ lệ biến chứng thần kinh mức độ nặng với 21,3%. Số bệnh nhân có rối loạn cương chiếm 68,7%. Trong nhóm kiểm soát HbA1C không đạt mục tiêu, tỉ lệ rối loạn cương cao hơn so với nhóm không rối loạn cương, tỉ lệ rối loạn cương là 69,05% so so với nhóm không rối loạn cương là 57,9%. Nhóm thời gian phát hiện bệnh bệnh (>5 năm) thì tỉ lệ rối loạn cương (61,9%) cao hơn nhóm không có rối loạn cương (31,59%). Nhóm biến chứng thần kinh ngoại vi mức độ nặng, tỉ lệ rối loạn cương là 28,58% so với nhóm không rối loạn cương là 10,54%. Kết luận: Rối loạn chức năng tình dục ở người bệnh nam giới đái tháo đường týp 2 có biến chứng thần kinh trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỉ lệ 68,7%, trong đó thời gian mắc đái tháo đường càng lâu và mức độ biến chứng thần kinh ngoại vi càng nặng tần suất rối loạn cương càng cao  do đó cần phát hiện sớm và tránh ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
#Rối loạn chức năng tình dục #biến chứng thần kinh #đái tháo đường týp 2
Sự quá tải kẽm gây tổn thương cho tế bào cơ tim H9c2 thông qua sự rối loạn chức năng ty thể và quá trình tự thực bào ty thể trung gian ROS Dịch bởi AI
Cardiovascular Toxicology - Tập 23 - Trang 388-405 - 2023
Sự cân bằng kẽm là yếu tố thiết yếu để duy trì sự cân bằng redox, sự tăng sinh tế bào và quá trình apoptosis. Tuy nhiên, việc tiếp xúc quá mức với kẽm là độc hại và dẫn đến rối loạn chức năng ty thể. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thiết lập một mô hình quá tải kẽm bằng cách điều trị các tế bào cơ tim H9c2 của chuột với Zn2+ ở các nồng độ khác nhau. Kết quả cho thấy rằng sự quá tải kẽm làm tăng mức độ LDH và các loài oxy phản ứng (ROS), dẫn đến cái chết tế bào, giảm điện thế màng ty thể và làm suy yếu chức năng cũng như động lực học của ty thể. Hơn nữa, sự quá tải kẽm kích hoạt con đường tín hiệu PINK1/Parkin và gây ra quá trình tự thực bào ty thể thông qua ROS, trong khi NAC ức chế quá trình tự thực bào ty thể và làm suy yếu sự kích hoạt của con đường PINK1/Parkin, từ đó bảo tồn sự sinh tổng hợp ty thể. Ngoài ra, dữ liệu của chúng tôi cũng cho thấy rằng việc loại bỏ Mfn2 làm tăng sản xuất ROS và làm trầm trọng thêm độc tính tế bào do quá tải kẽm gây ra. Do vậy, kết quả của chúng tôi cho thấy rằng sự phát sinh ROS do Zn2+ gây ra dẫn đến tự thực bào ty thể và rối loạn chức năng ty thể, gây tổn hại cho tế bào cơ tim H9c2. Thêm vào đó, Mfn2 có thể đóng vai trò chính trong sự tương tác giữa lưới nội sinh chất và ty thể do ion kẽm điều chỉnh. Kết quả của chúng tôi mang đến một góc nhìn mới về độc lý do kẽm gây ra.
#quá tải kẽm #tế bào cơ tim H9c2 #rối loạn chức năng ty thể #ROS #tự thực bào ty thể #con đường PINK1/Parkin #độc tính
Nghiên cứu nhu cầu, thực hành tình dục ở các thai phụ và một số yếu tố liên quan
Tạp chí Phụ Sản - Tập 22 Số 3 - Trang 64-71 - 2024
Đặt vấn đề: Sự thỏa mãn tình dục là một trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên cuộc hôn nhân hạnh phúc và góp phần duy trì mối quan hệ bền vững theo thời gian. Thai kỳ có thể ảnh hưởng đến hoạt động tình dục do có nhiều thay đổi nhiều mặt về giải phẫu, tâm sinh lý của người phụ nữ. Mục tiêu: Khảo sát nhu cầu, thực hành tình dục và một số yếu tố liên quan đến thực hành tình dục ở thai phụ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát 997 thai phụ khỏe mạnh từ 7/2022 đến 4/2023 ghi nhận thông tin nhân khẩu học, mối quan tâm và thực hành về tình dục, chức năng tình dục qua bộ câu hỏi thông tin cá nhân và chỉ số chức năng tình dục nữ FSFI (Female Sexual Function Index). Kết quả: Tuổi trung bình của các thai phụ là 29,2 ± 5,4 tuổi; 70% thai phụ có quan hệ tình dục trong thai kỳ, trong đó tần suất hoạt động tình dục trong thai kỳ nhiều nhất trong quý 2 (p < 0,05). Điểm số ham muốn tình dục theo FSFI giảm ở quý 1 và quý 2, sụt giảm đáng kể ở quý 3 (3,60 ± 0,72; 3,70 ± 0,67 và 2,30 ± 0,77 tương ứng) (p < 0,05). 81,3% thai phụ có thay đổi chức năng tình dục, điểm FSFI trung bình 3 quý lần lượt là 23,80 ± 3,30; 25,20 ± 3,00 và 17,90 ± 3,40 (p < 0,05). Thay đổi chức năng tình dục ở thai phụ có liên quan với nhóm tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn và điều kiện kinh tế gia đình thời gian chung sống, kế hoạch mang thai, tiền sử mang thai và sinh con, người khơi mào tình dục, chỉ số khối cơ thể trong quý 3 thai kỳ (p < 0,05). Mối quan tâm phổ biến nhất về quan hệ tình dục được ghi nhận là sơ tổn thương thai nhi (74,7%) và sinh non (61,8%). Kết luận: Tỷ lệ thay đổi chức năng tình dục tương đối cao ở thai phụ, cần cung cấp những thông tin đúng đắn về tình dục giúp thai phụ cải thiện chất lượng đời sống tình dục trong thai kỳ.
#chức năng tình dục nữ #FSFI #rối loạn chức năng tình dục #thai phụ #quan hệ tình dục #yếu tố liên quan
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2